Bài viết Bát hương bản mệnh là gì, Mách anh
chị cách bốc cho phù hợp thuộc chủ đề về Kiến Thức Nhang Trầm
thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !!
Hôm nay, Hãy cùng NguyenDuyKhanh.vn tìm hiểu Bát
hương bản mệnh là gì, Mách anh chị cách bốc cho phù hợp trong bài
viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem nội dung về : “Bát hương bản mệnh là gì, Mách anh chị cách bốc cho phù
hợp”
Đánh giá về Bát hương bản mệnh là gì, Mách anh chị cách bốc cho
phù hợp
Xem nhanh
Link tải trên web: https://tamlinhdatviet.com/danh-muc/phan-mem/
Link tải trực tiếp chỉ dành cho khách đã có mã kích hoạt:
https://drive.google.com/file/d/1QaWTm_Vw-t1Ik6ZKu3DgVCanU0Gcmyw1/view?usp=sharing
2.2 Theo quan điểm của Đạo Giáo và Tiên đạo bát hương bản mệnh
thường được chia làm 2 loại sau:
2.2.1 a. Bát hương bản mệnh yêu cầu:
2.2.2 b. Bát hương bản mệnh tự nguyện
2.3 Theo quan Điểm của Phật GIáo. Có nên Lập Bát hương Bản Mệnh
hay không?
2.3.1 Quan điểm từ cá nhân Chúng Tôi.
3 3. Các bốc bát hương bản mệnh
1. Bát hương bản mệnh
là gì ?
Tôn nhan bản mệnh và bát hương bản mệnh coi là một.
Nếu theo tâm linh bát hương bản mệnh là khí cụ được mọi người thành
tâm thân gửi bản mệnh của thân thể mình cho đấng tối cao. Mọi người
lập bát hương bản mệnh đều đặn mong muốn nhận được ban phước, che
chở độ trì gặp thường xuyên may mắn trong cuộc sống, tránh gặp tai
ương qua khỏi nạn kiếp trong đời sống.
Bộ đồ thờ men nổi nổi
4
BÀI VIẾT LIÊN
QUAN:
– Nên mua bát hương màu gì
– Mua bát hương ở đâu tốt.
– Cách chọn mua bát hương
– Cách bốc bát hương bàn thờ gia tiên
CL32_ỨNG DỤNG VIẾT CỐT BÁT HƯƠNG BẢN MỆNH
ĐẦY ĐỦ TỰ ĐÔNG
Mô tả video
Link tải trên web:
https://tamlinhdatviet.com/danh-muc/phan-mem/nLink tải trực tiếp
chỉ dành cho khách đã có mã kích hoạt:
nhttps://drive.google.com/file/d/1QaWTm_Vw-t1Ik6ZKu3DgVCanU0Gcmyw1/view?usp=sharing
Theo quan điểm của Đạo
Giáo và Tiên đạo bát hương bản mệnh thường được chia làm 2 loại
sau:
a. Bát hương bản mệnh
yêu cầu:
– Những anh chị em nào là con của Phật, Tiên, Thánh,
Vương mang trong mình mệnh đồng. yêu cầu phải mở phủ hay nói các
khác là lập bát hương bản mệnh hay tôn nhéng bản mệnh.
– Những người có căn quả, từ kiếp trước được bề trên
cứu rỗi, Vì vậy từ tiền kiếp Anh chị đã lập bát hương bản mệnh nên
kiếp này cần phải tiếp tục tôn nhéng bản mệnh của mình. Kiếp này
vẫn phải nương nhờ nơi các ngài và nhớ ơn đức của các ngài đã cứu
rỗi cuộc đời anh chị em.
Trường hợp này là những anh chị
em không mang căn quả cũng chẳng phải mệnh
đồng. Đơn giản họ chỉ là các người nhu cầu được sự
che chở của đáng tối cao. Hộ có thiện tâm, tín tâm, nguyện
phụng thờ Tiên Thánh. các ngừoi này,
sẽ có được phần nhiều thành tựu trong đời
sống, nếu như họ tuân thủ đúng theo những tiêu
chí của một hương tử hay phật tử …của đạo phái mà
mình tin theo.
Trường hợp thứ hai: Đây là trường hợp
đối với các tư nhân ko với căn quả,
mệnh đồng lại không hiểu biết, u mê lầm
lẫn, hùa theo người, tôn nhéng bản mệnh cómục
đích vụ lợi, làm những việc trái đạo…
Theo quan Điểm của
Phật GIáo. Có nên Lập Bát hương Bản Mệnh hay không?
Ai mà có tướng yểu mệnh đó là tiền kiếp mình thường
làm ác, tổn hại sinh linh nhiều, không có tâm nhân từ, hay sân hay
si thì mệnh mình Giảm, không được trường thọ. Còn ngược lại nếu
mình chăm tu, làm phước sống nhân từ, bác ái, thương người cứu vật
một cách tự nhiên sẽ hiện ra tướng thọ mệnh, mạng mình sẽ được kéo
dài.
Vậy chính mình làm chủ bản mệnh của mình, chứ không
phải thờ bát hương bản mệnh là có cái ông thần bản mệnh, hộ mệnh
cho mình để kéo dài mạng sống cho mình đâu. Mình mà làm ác thì chư
thiên, thiện thần không ai ủng hộ. Dù có thờ 10 bát hương đi chăng
nữa mà vẫn tạo ác thì vẫn tổn mệnh như thường. do đó nhớ đừng nên
thờ bát hương bản mệnh. Đó là việc không hợp đạo lý, nhất là Phật
tử đã quy y Tam Bảo rồi, nếu lỡ thì giải bỏ đi. Mà mình phải thờ
cái bản mệnh tâm mình, kính thờ nơi tâm mình, nhất tâm tu Phật.
Các cụ có câu: Có thờ có thiêng có kiêng có lành. Vì
vậy nếu có căn quả nên lập phủ thờ thánh. Nếu không có căn quả mong
muốn mọi sự tốt lành cũng nên lập. Lập không có nghĩa là thần thánh
sẽ quyết liệt được số phận của mình. Số phận của anh chị em là
đường chỉ tay, đường chỉ tay nằm trong lòng bàn tay anh chị em.
Để viết chi tiết thì bài viết cực dài Vì vậy em đã
tóm tắt lại như sau:
Tôn nhang đội lệnh là hình thức đầu tiên và căn bản
nhất của người có căn trong đạo Mẫu. Nghi lễ này được thực hiện nay
Tòa, Đền, Phủ, hoặc Điện. Sau nghi lễ sẽ để lô hương tại Tòa, Đền,
Phủ, Điện để Đệ tử có thể hằng tháng sóc vọng hương khói lễ bái.
Trường hợp xa những nơi thờ cúng trên có khả năng xin phép lô hương
đó về nhà thờ nhưng phải có ban thờ riêng không thờ chung với gia
tiên mình, cũng có thể phối thờ chung với ban thờ đức Quốc Mẫu (nếu
có).
Lưu ý rằng, Tôn hương đội lệnh dành cho những người
có căn nhẹ không quá nặng nề, hoặc do điều kiện chưa thể phục vụ
Thánh đức, chưa thể hầu hạ Tiên Thánh được nên mới Tôn nhang, hoặc
có thể Tín đồ mới vào đạo cần thời gian chiêm nghiệm và tìm hiểu
thông tin về đạo nhiều hơn thì sử dụng nghi lễ này.
Người tôn hương đội lệnh trước ngày lễ phải kiêng cữ
chuyện vợ chồng, phải chăm làm việc thiện lành, phải giữ tâm trong
sạch, không được nghĩ ngợi những việc xấu, toàn tâm toàn ý dâng lên
Thánh đức, làm như thế để tịnh hóa bản thân, lễ vật xứng đáng dâng
lên đức Quốc Mẫu và Tiên thánh tốt đẹp nhất là cái tâm trong sáng,
thân thể sạch sẽ, không được nhơ bẩn uế trược.
Lễ vật dâng cúng lên đức Quốc Mẫu và Tiên Thánh được
quy định trong quy tắc của Giáo hội Đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG, lễ
vật gồm chay nghi thanh tịnh, hoa quả, đồng quà tấm bánh, kẹo vật
phẩm đơn giản, điều quan trọng nhất là lễ cho mâm hương của
mình.
Việc tôn nhéng bản mệnh là hình thức thờ cúng Thần
hộ mệnh của mình. Vị thần này là các nữ thần, nhiệm vụ của họ là
tấu thay lạy đỡ lên Thánh Bản mệnh giúp mình, sau khi tiến lễ Tôn
nhéng đội lệnh chúng ta có thêm được vị Thần Hộ mệnh này trợ giúp
về mặt tâm linh, sau khi trình đồng Thần Hộ mệnh sẽ sát cánh trợ
lực cho ta và Thánh Bản mệnh sẽ trợ giúp chúng ta, nâng đỡ chúng
ta, cầu bầu cho chúng ta lên đức Quốc Mẫu Tối cao.
Mâm hương trong lễ Tôn hương đội lệnh bao gồm: 1 nón
Thần hộ mệnh, 1 đôi hài, 1 chiếc gương nhỏ, 1 lược, 1 bút, 1 vở, 1
quạt, 36 đồng tiền dương, trầu cau, sớ Tôn hương, Cốt bát hương ghi
tên duệ hiệu của Thần Hộ mệnh, màu nón hài tùy theo dòng Thần hộ
mệnh đó. Nội dung cốt hương đó như sau: “Phụng thỉnh (tên vị Thần
Hộ mệnh) Công chúa (sinh năm) Bản mệnh (họ của người tôn nhéng)
tính Vị Tiền”
Chủ trì lễ Tôn nhang có khả năng là Quan thầy hoặc
Pháp sự của Giáo hội, Đồng thầy của Tín ngưỡng Mẫu. Trong lễ này,
Thầy phải cung thỉnh Tiên Thánh trong Tứ phủ Công đồng các khoa
thỉnh có thể là: Cúng đức Quốc Mẫu Tối Cao, Cúng Thánh Mẫu,
nếu người Tôn hương có căn bên nhà Trần thì phải làm lễ Đội
lệnh nhà Trần (sẽ được trình bày sau).
Sau khi hoàn thành phần khoa thỉnh, là tới phần
chứng mâm hương, phần chứng này chỉ có Quan thầy hoặc Đồng thầy mới
có khả năng chứng được, Pháp sự không có Đồng không thể chứng mâm
hương được. Trước khi người Tôn nhéng đội mâm hương, cung văn tấu
lên hát văn Thỉnh Công đồng, người Tôn nhang ở dưới quỳ lễ cung
thỉnh. Sau khi thỉnh Công đồng xong thì người Tôn hương xin Tiên
Thánh được lên sập Công đồng ngồi. (Nhớ cho kĩ là không được ngồi
giữa sập Công đồng vì chưa là Thanh đồng nên không được ngồi giữa
sập, chính giữa là nơi cho Thanh đồng ngự giá hầu Thánh). Cung văn
hát bài tôn hương, Quan thầy vận áo màu đỏ (Áo công đồng) tay cầm 3
cây hương thư vào mâm hương, tiếng hát ngưng.
Thư chữ xong làm
phép khai quang, Quan thầy đọc:
“Dung nhén thập kì diệu
Khai quang chiếu từ chung
Ngã tích tàng cúng dạng
Kim phụng hoàng dân cận
Thánh Chúa Tiên chung vương.”
Quan thầy tuyên lớn: “Phụng thỉnh (Tên thụy
hiệu Thần Hộ mệnh) Công chúa Thủ hộ Bản mệnh (Tuổi người tôn nhang)
họ (họ của người Tôn hương) Tác đại chứng minh”.
Tuyên xong, Quan thầy thư vào mâm lễ các chữ
sau:
“Tiên Thánh chứng minh
Hội đồng chứng chiếu”.
Quan thầy hoặc
Pháp sự quỳ xuống tuyên sớ Tôn nhéng. Tuyên xong hóa sớ. Cung văn
hát bài hành sai. Quan thầy cho cốt hương vào bát nhang trên mâm,
cho tro vào và cắm 3 nén hương khai quang vào bát nhéng.
Quan thầy tạ quá,
hoàn lễ.
Lễ này hoàn mãn,
người Tôn nhéng chính thức được gọi là Hương tử hay nôm na là Con
hương.
Nhiệm vụ của
Hương tử là hàng tháng sóc vọng nhiều tới Tòa, Đền, Phủ, Điện hương
khói phụng thỉnh trong vòng 100 ngày, ngoài 100 ngày thì hằng năm
bốn vấn quy về lễ tiết phụng trì (mặt khác có khả năng tùy vào Đền
phủ có các ngày Thánh đản của Thần chủ).
Nếu Hương tử xin
lô hương về tại gia thờ phụng thì một năm 4 vấn vẫn phải về Tòa,
Phủ, Đền, Điện nơi Tôn hương mà khâm trực phụng trì.
Theo nghi tiết
của Giáo hội Đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG thì Hương tử chưa được phép
mặc áo công đồng (áo đỏ có chữ thọ), chỉ có thể mặc áo dài trắng
không hoa văn không xếp (nếu có) hoặc đã thụ quy vào Giáo hội thì
được mặc áo đỏ không hoa văn, xếp vàng (với nữ) áo đỏ xếp đỏ (với
nam) (tất cả có trong quy định nghi tiết của Giáo hội)
Về mặt thần học,
người Tôn nhang sẽ được Thần Hộ mệnh của mình cầu nguyện lên Thánh
Bản mệnh của bản thân (Thánh đứng đầu căn đồng của mình) để các
Ngài gia hộ, chứng giám, gia ân cho Hương tử. Vậy nên mới nói Tôn
hương là cách thức cơ bản đầu tiên và sơ khai nhất dành cho người
có căn đồng, nó dành cho người nhẹ căn. Tất nhiên, để biết nặng hay
nhẹ, tùy thuộc vào sự nhìn nhận và hướng dẫn của Quan thầy.
Bộ đồ thờ men lam bọc
đồng số 4
III. Sơ trình Tam
phủ:
Tam phủ hay còn gọi là Tam phủ công đồng là hình
thức sơ khởi ban đầu của Tứ phủ Công đồng. Tam phủ công đồng
có Thiên phủ, Địa phủ, Thoải phủ khác với Tứ phủ là không có
Nhạc phủ.
Tam phủ Công đồng hay gọi tắt là Tam phủ là nơi lưu
trữ căn bản những tội phúc của con người, kiểm soát, coi sóc, giáng
tai làm phúc cho sinh nhân trên toàn nhân thế, không riêng già trẻ,
trai gái, có căn hay không có căn.
Xét về quy mô, Tam phủ không có Nhạc phủ, không
những thế, nhắc đến Tam phủ là không nhắc đến các hàng Mẫu, Chúa,
Chầu, Hoàng, Cô, Cậu mà ta thấy đầu tiên phải là Thiên phủ Chí Tôn,
Địa phủ Chí Tôn và Thoải phủ Chí Tôn cùng các tùy tòng của các
Ngài.
Tam phủ vâng phụng Quốc Mẫu giáo phong có quyền kiểm
soát hết thẩy sinh mệnh của toàn thể sinh linh trong Vũ trụ, những
tội ác hay phúc thiện trong quá khứ, những tai ương hay điều lành
Hiện tại, những hiện tượng sẽ có trong tương lai thì sẽ được tất cả
các Thánh đức trong Tam phủ biên kê rõ ràng và sai các Hành binh đi
thi hành nơi nhân thế, đặc biệt nhất là việc thu lại hồn phách của
người đó.
Như đã nói trên, người có căn đồng trong đạo Mẫu là
người mang nặng tội nghiệp, mà đã mang tội nghiệp thì ắt sẽ bị các
Thánh đức trong Tam phủ kiểm tra và hành tai, người có căn đồng
phải Sơ trình Tam phủ nặng hơn người phải Tôn hương đội lệnh. có
khả năng biểu hiện có họ nặng nề hơn, họ ngu ngơ, làm mọi sự đổ vỡ,
thân thể bất an, tôn hồn hoảng hốt, nguyên nhân theo Thần học là
hồn phách họ bị nhốt vào các ngục của Tam phủ công đồng, Thiên
ngục, Địa ngục, Thủy ngục.
Người hành lễ Tam phủ để sám hối tội lỗi của mình đã
gây ra từ trước, có khi nó được dùng cho những người nặng căn nhưng
không có thể xin hầu Thánh giá.
Lễ sơ trình Tam phủ hay còn gọi là Lễ Tam phủ Thục
mệnh Tiễn Căn cầu an giúp họ thống hối ăn năn những điều tội lỗi
trước kia và tự định những việc mình sẽ phải làm trong Hiện tại và
tương lai, sau đó đối trước Tam phủ Thánh hiền cung xin phép chư
Ngài cho phép phụng hành, tuyên thỉnh việc đạo, làm lành, lánh dữ,
nương theo Thánh lực đển cứu độ bản thân, gia đình và mọi người
xung quanh. Đó chính là nghĩa lí căn bản của việc Sơ trình Tam
phủ.
Người chủ trì lễ Sơ trình Tam phủ có thể là Đồng
thầy hay Pháp sự. Lễ Tam phủ không yêu cầu phải hầu chứng, nếu có
người hầu chứng phải là Đồng thầy, người làm lễ không được hầu vì
qua lễ này người đó chưa phải Thanh đồng nên cũng không phải hằng
năm bốn vấn hầu đồng.
Lễ vật để dâng cúng trong lễ Sơ trình Tam phủ là
trai nghi thanh tịnh, tuân theo quy định về nghi tiết của Giáo hội
Đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG, nhưng đáng chú ý nhất là nghi tiết khai
chĩnh mở Tam phủ.
Khai chĩnh mở Tam phủ thoạt đầu nhìn nghi tiết giống
với khai chính mở Tứ phủ, nhưng về bản chất hoàn toàn khác. Khai
chính mở Tam phủ là việc giải thoát cho người cung lễ khỏi những
tội lỗi của của bản thân, giải thoát họ khỏi những triền phọc,
chứng nhân cho việc chuyển hóa đạo đức, còn khai chĩnh Tứ phủ là
hình thức mở cửa Bốn phủ, đón nhận Bản mệnh của Thanh đồng, đánh
dấu sự hiệp thông trực tiếp của Bản thân Thanh đồng với Tiên Thánh
trong Công đồng Tứ phủ.
Sự khác nhau còn thể hiện ở cách thức, khai chĩnh
Tam phủ không có nối cầu, không khai trứng, không cấp thực ban
ngân, không tưới tẩm cây cối…
Người lễ Sơ trình Tam phủ phải chuẩn bị lễ vật theo
quy định của Giáo hội và đặc biệt hai thứ sau đây không thể không
có: 3 chĩnh Tam phủ, 3 gáo khai chĩnh lần lượt các phủ Thiên phủ
màu đỏ, Địa phủ màu vàng, và Thoải phủ màu trắng.
Khoa nghi trong lễ sơ trình Tam phủ cốt tủy tập
chung vào 2 khoa nghi chính là Khoa Phát tấu và Khoa Tam phủ Thục
mệnh. Thánh trong Tam phủ là Thánh cao trọng chỉ gồm Vua và các Bộ
chúng nên phải nhờ tới năm vị Sứ giả để cung thỉnh Thánh đức, sự
hiệp thông của Năm vị Sứ giả cùng với lòng tín nguyện của bản thân
mới có khả năng cảm động Tam phủ một cách sốt sắng. mặt khác còn có
khả năng có những khoa nghi khác như cung thỉnh Đấng Tối cao, Thánh
mẫu, Chư thánh khác … tùy nghi và thời gian.
Trung tâm của nghi lễ Sơ trình Tam phủ là nghi thỉnh
khai chĩnh Tam phủ.
Việc khai chĩnh Tam phủ có thể được thực hiện ở hai
thể thức khác nhéu, Pháp sự khai chĩnh và Quan thầy hầu đồng khai
chĩnh.
Nếu chủ lễ là Pháp sự thì Pháp sự sẽ là người khai
chĩnh. Khi Pháp chủ tuyên điệp Thiên phủ khai giải Thiên ngục xong,
nhạc lễ tấu lên, Pháp sự hành sai, dùng 3 nén hương sai, cặp vào
một chiếc gương nhỏ trên tay, đọc niệm hương khai quang:
“Dong nhén thập kì diệu
Quang minh chiếu từ chung
Ngã tích tàng cúng dạng
Kim phụng hoàng dân cận
Thánh chúa Tiên trung vương.”
Khai quang xong,
Pháp sự hóa phù khai giải Thiên phủ màu đỏ, vừa hóa vừa cầm phù
đang cháy trên tay hơ lên gáo màu đỏ, rồi cầm gáo màu đỏ mở chĩnh
Thiên phủ, lấy một chút nước trong đó đổ lên đầu của người hành lễ.
Các phủ khác tương tự như vậy.
Nếu người chủ trì
lễ Sơ trình Tam phủ mà có hầu đồng, thì phần khai chĩnh lại ở trong
phần hầu đồng. Khi hầu đồng Thánh giá sẽ đệ trình lên Tam phủ công
đồng chính lẽ đó không có đốt phù khai giải. Thánh giá khai Tam phủ
là Quan đệ nhất Thượng thiên, Quan đệ Tam Thủy phủ và Quan đệ tứ
Khâm sai lần lượt khai chĩnh Thiên phủ, Thoải phủ và Địa phủ. Sau
khi Thánh giá làm các nghi tiết thông thường như trong hầu đồng, an
tọa và nghe Pháp sự tuyên cáo Thiên phủ khai giải Thiên ngục, trình
lên Quan lớn phê “Chuẩn nạp”. Phê xong quan lớn vỗ gối đứng lên,
hầu dâng tiến lên 3 nén hương sai và chiếc gương nhỏ, giá Quan khai
quang, dùng gáo khai chĩnh, giá Quan lớn không đốt phù khai giải.
Khai chĩnh xong giá Quan lấy chút nước đổ lên đầu của người hành
lễ. Lần lượt Thiên phủ, Thoải phủ và đến Địa phủ.
Không có danh
xưng mới nào dành cho người Sơ trình Tam phủ, nhưng ý nghĩa về mặt
Thần học như nói trên quả vô cùng lớn lao, họ được các Thánh đức
trong Tam phủ công đồng chứng chiếu gia ân bảo hộ xóa bỏ những
khung hình phạt đã được ghi chép tại Tam phủ ngục hình. Nhờ sự gia
ân của Tam phủ và chí thiết của bản thân, những tội lỗi cũ của họ
sẽ được ân xá phần nào, về trong đời sống cần chăm cầu nguyện, tiếp
xúc với Quốc Mẫu và chư vị Tiên Thánh, làm việc phúc thiện thì
những tội lỗi của họ sẽ được hạn chế xá.
mua đồ thờ tại gốm sứ
Lợi An
Trình đồng mở phủ:
Trình đồng mở phủ là nghi thức cao nhất của người có
căn đồng trong đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG. Người thực hành nghi lễ
này là người có tình trạng sát căn rất lớn, nghiệp mệnh của họ đòi
hỏi họ phải có những việc làm phụng vụ cao hơn, họ phải “đầu đội
việc Thánh, vai gánh việc trần”, những người có căn cao quả nặng,
vận mệnh số kiếp đều đặn long đong, mệnh càn bóng quế, sống nơi
trần thế, nhưng số hệ thiên cung, đang bị hành hạ và quản thúc bởi
các chư Thánh thần do vì chính nghiệp chướng của họ gây ra từ
trước.
Nghi lễ này biểu đạt tinh thần chịu nhận, đón nhận
Thánh linh của các Thánh đức trong Công đồng, người có căn sẵn sàng
để được thừa hưởng diễm phúc rằng Thánh đức Bản mệnh của mình tương
đương Thánh đức trong toàn Tứ phủ Công đồng dẫn dắt, chỉ lối dẫn
đường, gia ân bảo hộ, cho Thánh đức, nhờ vào tay Thánh mọi trọc
phiền của người có căn được hóa giải và sẽ đến lúc tan biến.
Lễ trình đồng mở phủ khai mở con đường hiệp thông
của người có căn với Đình thần Tứ phủ, gồm cả Thiên phủ, Địa phủ,
Thoải phủ và Nhạc phủ. Nó là con đường ngắn nhất để ta có thể biểu
đạt, rãi tỏ tấm lòng của mình với Đức Quốc Mẫu và Tiên Thánh. có
khả năng nói sự hiệp thông đó là trực tiếp và hoàn mãn nhất trong 3
lễ liên quan đến căn mệnh. Khác với lễ Tôn nhéng thì qua lễ này
người có căn sẽ trực tiếp cầu thông với Tiên thánh, còn người làm
lễ tôn nhéng chỉ cầu thông được với Thánh nhờ thần Hộ mệnh của
mình.
Trước khi làm lễ Trình đồng mở phủ, người có căn cần
tới xin lễ ở Tòa Phủ Đền Điện, thỉnh giáo ý kiến của Quan thầy, cho
ngày giờ, và nhớ nghe theo sự hướng dẫn của Quan thầy. Trước ngày
lễ hàng tuần phải giữ gìn thân thể sạch sẽ, tránh những việc giết
hại, kiêng cữ chuyện vợ chồng, tâm hồn trong sáng, đoan chính ý
niệm, giữ gìn phong ngôn nhu nhặn, không đánh cãi chửi nhau, chăm
làm việc phúc lành, xưa làm nhiều giờ làm nhiều hơn, rời xa những ý
niệm sai khác xấu ác, không hành động làm tổn hại người khác …
Người có căn phải chuẩn bị cho mình một đàn nghi
tươm tất, gọn gàng, lễ nghi thanh tịnh, hoa tươi quả tốt, hiến cúng
mười phương Chư Thánh. ngoài ra nhất thiết phải có những phẩm vật
sau đây:
Một bộ khăn áo Công đồng: Áo dài đỏ có hoa văn,
quần trắng, khăn xếp màu đỏ, khăn phủ diện đỏ, khăn tấu màu đỏ, mỗi
thứ một cái.
Khăn van chít đầu, cầu mở phủ (bằng vải hay bằng
giấy) mỗi thứ 4 cái 4 màu tượng trưng cho các phủ: Thiên Nhạc Thoải
Địa trên mỗi cầu viết phù khai phủ cầu.
4 quả trứng gà được bọc 4 màu tương ứng các phủ nếu
có khó khăn thì mỗi phủ 12 quả, có khi 36 quả (tùy khó khăn).
4 quạt 4 màu sử dụng để khai phủ, 1 nọ nước hoa (có
khả năng 4)
Bộ cấp thực ban ngân: Một nhúm gạo, thóc, đỗ, lạc,
muối mỗi thứ đóng 4 gói nhỏ thắt bằng nơ màu của bốn phủ, tiền
dương 4 đồng, trầu têm cánh phượng 4 miếng, lựa kĩ 4 bông hoa
tươi.
Bốn chĩnh trong đổ tương đối nước, được đậy miệng
lại bằng bốn miếng giấy bốn màu, giấy phải đảm bảo khi khai chĩnh
được đơn giản.
Người có căn phải tự mình chuẩn bị sẵn 4 chậu cây
cảnh do mình tự chăm sóc để khi khai phủ Thánh giá sẽ tưới tăm cây
nhân đức, trên mỗi thành chậu đề lần lượt một chữ Thiên, Địa, Thủy,
Nhạc.
Dâng nón và hài Mẫu, nước thơm, 4 tập giấy bốn màu
(có khả năng thay bằng vở) 4 bút.
Nếu có điều kiện dâng Mũ Thiên đế và Nam tào Bắc
đẩu và nón của Tiên chúa Sơn trang cùng Hội đồng.
Bài vị thì theo nghi tiết của Giáo hội nhưng cần
thiết nhất vẫn là bài vị của Đấng Tối cao, Công đồng và đặc biệt là
5 bài vị trong đó có bài vị của Thiên phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ, Địa
phủ và Bản mệnh (màu hồng) trên bài vị các Phủ có viết phù khai
phủ.
Về phần khoa nghi thì cốt tủy trong khoa nghi của lễ
trình đồng là phát tấu và trình đồng, có khả năng kết hợp thêm các
khoa nghi khác như Sơn trang, Trần triều, Bản mệnh … Về cúng Phát
tấu cũng khá quan trọng nó mang ý nghĩa là nhờ 5 vị sứ giả cúng
vọng Tiên Thánh về chứng cho người có căn, vì tới thời điểm làm lễ
người có căn vẫn chưa hiệp thông trực tiếp được với Tiên Thánh.
Lễ vật cúng Phát tấu là riêng biệt so với lễ cúng Tứ
phủ kể trên, lễ vật cho khoa này gồm có: 5 quả trứng 5 màu, 5 tập
giấy, 5 bút, 5 gương, 5 lược, 5 khăn mùi xoa, 5 quạt năm màu, 5 con
dao, 5 cái kéo, 1 nước hoa (hoặc 5), 5 hộp diêm (hay bật lửa).
Sau khi hoàn thành các khoa nghi là đến phần hầu
khai phủ, phần này là trung tâm quan trọng của lễ Trình đồng mở
phủ.
Đồng thầy lên sập công đồng, khăn áo chỉnh tề, khoác
áo công đồng màu đỏ. Trước khi vào vấn hầu chứng đồng Quan thầy
khấn nguyện xin phép Quốc Mẫu Tiên Thánh gia ân bảo hộ cho Quan
thầy hầu và Tân đồng cúng lễ.
Thầy có thể hầu các giá nhà Trần và hàng Chúa như
thường lệ, thông thường nên hầu 1 giá nhà Trần và 1 giá Chúa.
Nếu người không có căn bên nhà Trần thì tới giá Quan
đệ nhất mới chứng khăn xếp và đội lên đầu cho người làm lễ, giá sẽ
chứng sau khi khai quang. Các giá Quan đệ nhị, đệ tam, đệ tứ cũng
làm tương tự, sau phần nghi tiết thông thường thì đều tới phần khai
phủ.
Ở phần khai phủ, các ghế hầu dâng lên cho giá Quan
bài vị khai vị, giá quan khai quang bằng hương rồi các ghế cận cầm
dâng sớ để Quan lớn sử dụng nén hương đang cháy thư vào sớ chứng
minh, rồi đặt lên mâm lễ đang đội trên đầu của người có căn, việc
này có nghĩa là chứng minh lời cầu thỉnh của người có căn, sớ trạng
được chấp nhận.
Hầu dâng gấp dải khăn van thành nét dâng lên cho giá
Quan, Quan chứng rồi buộc lên khăn xếp của người có căn đội trên
đầu, đội khăn đó trên đầu người trình đồng phải có ý thức rằng từ
giờ việc của Tiên Thánh đã đặt lên đầu họ, họ có nhiệm vụ tuyên
dương Thánh đức, họ phải có ý thức học tập tuyên hành Thánh ý sống
tốt đời đẹp đạo, họ mang dòng máu Thánh thần trong mình, họ đã là
con của Thánh đức.
Thứ đến người làm lễ ngồi giữa sập công đồng, giá
Quan rải cầu chậm rãi từ chĩnh tới đầu của người làm lễ. Hầu dâng
dâng quạt trong mâm lễ trình (không phải quạt trên mâm lễ Phát tấu)
cho giá Quan, cầm một nén hương hành sai, Quan lớn đọc trong miệng
bài hành sai khai quạt, rồi phất tay mở quạt ra, rồi vừa phất phất
dẫn quạt từ đầu của người lễ đến chĩnh, làm xong cuốn cầu từ phía
chĩnh về đầu người đội. Nghi thức này tượng cho việc hiệp thông
trực tiếp từ Bản mệnh (đầu người lễ) tới các phủ (các chĩnh) bằng
cây cầu.
Dâng tiếp cho giá Quan trứng đã bọc giấy màu, Quan
khai quang và mở lớp giấy bọc trứng ra trong tiếng hát:
“Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nẩy rừng thông rườm rà.”
Thứ tiếp Quan lớn phát thực để vào khay lộc cho
người làm lễ, thứ đến lần lượt gạo muối, thóc, đỗ, lạc, hoa hồng,
tiền dương, trầu cau … lấy lộc cho Tân đồng.
Hầu dâng lại dâng tiếp thanh kiếm và chiếc gáo khai
phủ, Quan chứng rồi gõ 3 tiếng vào thành chĩnh xong rồi sử dụng
kiếm khai chĩnh xuyên qua lớp giấy bọc trên miệng chĩnh, tiếp theo
lại sử dụng gáo múc nước trong chĩnh tưới lên hoa trên đàn, tưới
lên cây cảnh, và lấy một chút nước cho vào chum nhỏ để cho Tân đồng
làm lộc, lấy nước thơm vẩy lên người Tân đồng.
Xong việc Quan lớn an tọa, chứng rượu nghe văn, thứ
đến Pháp sự quỳ gối cúi đầu tấu thỉnh nội dung khai phủ, Quan lớn
gật đầu chấp chứng, hầu dâng trình tập giấy đỏ Quan lớn phê:
“Thiên phủ chứng minh
Hội đồng chuẩn nạp”
Tùy giá mà tùy phê, Quan đệ nhất phê “Thiên phủ
chứng minh”, Quan đệ nhị phê “Nhạc phủ chứng minh”, Quan đệ tam phê
“Thoải phủ chứng minh”, Quan đệ tứ phê “Địa phủ chứng minh” Xong
rồi Giá Quan dùng triện ấn Thiên phủ đóng dấu, lại dùng triện ấn
vào Điệp Tứ phủ. Đóng dấu xong, chứng, dâng lên Thượng điện.
Đó là nghi thức mở Phủ từng phủ của bốn Quan lớn,
Đến giá Quan lớn Tuần Tranh hành lễ xong Quan làm nghi thức tán
đàn, Quan cầm bó đuốc khai quang, thư vào đàn nội chữ:
“Tiên Thánh chứng minh
Hội đồng chuẩn nạp”
Chứng sớ điệp và sai người hóa sớ điệp, bài vị, hạ
mũ Thiên đế Nam Tào Bắc Đẩu (nếu có).
Hầu xong 5 giá Quan lớn, Quan thầy lại tiếp tục hầu
giá các Chầu. Nhất thiết phải hầu Chầu đệ nhị, Chầu lục và Chầu bé.
Vì lí do, Chầu đệ nhị là người kiêm tri Thánh mệnh, Chầu Lục là
chầu sửa sang mệnh, và Chầu bé là Chầu tiếp độ mệnh.
Chầu đệ nhị Thượng ngàn sẽ chứng mâm khăn áo, chính
thức thu nhận Tân đồng, và khăn áo đó sẽ được Tiên thánh gia hộ,
sau đó dùng chính chiếc khăn phủ diện vừa chứng trong mâm khăn áo
phủ lên đầu cho Tân đồng, rồi đặt mâm trầu để chứng, việc làm này
thể hiện rằng Tiên Thánh đã chính thức thu nhận tấm lòng của Tân
đồng. Người làm lễ đã chính thức là tôi tớ của Tiên Thánh, chính
thức là cái ghế của Thánh bản mệnh mình và chỉ cần qua một nghi
thức nữa là có khả năng thế Thánh cứu dân, có khả năng hiệp thông
trực tiếp với Tiên Thánh cũng như Thánh Bản mệnh của mình.
Chầu Lục Cung nương sẽ là giá trao áo Công đồng cho
Tân đồng, Chầu chứng áo rồi truyền trao cho Tân đồng, Tân đồng ngồi
trên sập Công đồng và các ghế hầu cậu phụ giúp việc mặc áo.
Chầu bé là người sẽ sang khăn, đây là nghi thức quan
trọng và cuối cùng của Đồng thầy. Chầu phủ diện cho Tân đồng trước,
sau đó phủ khăn cho mình trong tiếng hát của cung văn:
“Sang khăn phủ bóng cho đồng
Đồng Tân lính mới phúc hồng đề đa”
Khi giá Chầu trùm khăn cho mình, cung văn hát “Xe
loan Thánh giá hồi cung”, Quan thầy tung khăn và dừng hầu chứng mở
phủ tại đó.
Sau khi Quan thầy hầu xong, tới lượt Tân đồng hầu
Thánh, Tân đồng sẽ được Quan thầy hướng dẫn, các nghi tiết vẫn như
thường lệ khi hầu đồng.
Khi Tân đồng hầu Thánh giá phán rằng: “ Hôm nay ngày
lành tháng tốt, Thánh giá giáng lâm, chứng Đền chứng Phủ, Chứng Thủ
nhang đồng đền, Chứng cho Quan thầy, Chứng Thanh đồng đạo quan,
chứng minh cho Tân đồng họ … nhất tâm nhất lòng, phụng hành khoa
nghi, tuyên dương Tiên Thánh, cung nghinh Tứ phủ Công đồng Hội đồng
Các giá giáng lâm, ân chiêm khai phủ, chứng minh cho đồng tân lính
mới, độ Tân đồng Đồng không bóng ngoan, đồng sang bóng lịch sự,
trên lo việc Thánh, dưới gánh việc trần mọi sự đều thông an minh
bạch, độ cho gia chung lộc tài vượng tiến, phúc lành cát khánh, tử
tôn hôn tế đề huề, bốn mùa không hạn ách, tám tiết được trinh
tường. Độ bách gia trăm họ nhà nào lộc ấy mọi sự mắn may, hưởng ơn
Quốc Mẫu và Tiên Thánh.”
Tân đồng sẽ được hầu hết các giá và hạ sơn nếu có
khó khăn nữa thì Quan thầy hoặc Đồng anh Lính chị nào đã có thâm
niên trên 3 năm Đồng thì có khả năng hầu tạ khóa lễ, nếu không thì
xin khấn lễ bái tạ.
Từ lúc nghi thức sang khăn kết thúc, người có căn
làm lễ Trình đồng đã chính thức trở thành Thanh đồng hoàn chỉnh, họ
có thể hầu Thánh, chính thức mang trọng trách “đầu đội việc Thánh,
vai gánh việc trần”.
Thanh đồng phải giữ gìn khăn áo Công đồng của mình
như gia sản, như đặc ân của Tiên Thánh trao phó cho, mất thì phải
sám hối xin phép may lại, không được tự ý mua thêm khăn áo Công
đồng, rách thì phải nộp lại khăn áo cũ và xin may khăn áo mới.
Sắp cấp cho Thanh đồng phải gìn giữ cẩn thận, là vật
bất li thân lâu dài, khi đi đâu làm ăn xa lâu ngày phải nhớ mang
theo bên mình, nó là có ý nghĩa nhắc nhở bản thân cũng mang ý nghĩa
hộ mệnh cho Thanh đồng, khi chết phải mang theo.
Tân đồng phải theo lễ sóc vọng hàng tuần tiết, tiệc
đản giáng hóa của chư Thánh tại Tòa, Phủ, Đền, Điện, nơi mở phủ gọi
là chốn Tổ, phải có trách nhiệm trong việc đạo việc hành lễ của Ban
Trị sự nơi chốn Tổ.
Thanh đồng phải biết rằng giờ là lính ghế nhà Thánh,
phải sống tốt đẹp, “Trên vâng Tiên Thánh, dưới theo Quan thầy”,
phải chăm học tập chiêm nghiệm giáo lí tư tưởng của Thánh đạo, khai
hóa những nét đẹp của đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG, truyền bá mở rộng
đạo, nói giảng cho những người không hiểu, hoặc nghĩ sai lệch về
đạo Mẫu, phải là những chiến sĩ dũng mãnh trong công tác đạo giáo.
Luôn hòa nhã, nhường nhịn với Đồng đạo, không khoe khoang, luôn ân
cần với mọi người Đồng đạo, không ghanh đồng ghanh bóng, không biện
lễ lạc to lớn để chứng tỏ mình.
Về đời sống, Thanh đồng phải hoàn thành nghĩa vụ của
mình trong đời sống, chăm chỉ làm kinh tế, không quản nề hà mọi sự,
biết hi sinh cho gia đình và đất nước, xông pha vào mặt trận kinh
tế, văn hóa xã hội, giúp sức mình vào lợi ích chung của cộng đồng.
Thanh đồng luôn phải giữ gìn thật tốt những quy chuẩn đạo đức mà
cộng đồng thiết đặt, có như vậy mới là vinh danh Thánh giá, mới là
“đồng khôn bóng ngoan, đồng sang bóng lịch sự”. Phải luôn luôn nhớ
câu: “Tốt đời đẹp đạo”. Có được như thế ta mới báo đáp được công ơn
của Quốc Mẫu và Tiên Thánh cũng như Thánh Bản mệnh.
Bộ đồ thờ dát
vàng
Đội lệnh nhà Trần:
Nhà Trần không phải là một Phủ, cách sắp xếp của Nhà
Trần theo mô hình gia đình chứ không theo chức tước, Thánh phẩm,
Thánh vị như trong Tứ phủ có Vua Mẫu, Chúa, Chầu, Cô, Cậu …
Đức Thánh Trần đứng đầu nhà Trần chính là hiện thân
của Thanh y Đồng tử là Thái tử thứ bảy của Thiên đế nơi trần gian,
chính vì lẽ đó Nhà Trần (Phủ Trần Triều) được đưa về thờ bên cạnh
Tứ phủ cùng với Phủ Sơn Trang.
Như trên đã nói Đức Thánh Trần là Thanh Y Đồng Tử
giáng thế cứu độ Nam Việt là con của Thiên Đế thuộc dòng Tam phủ,
nên những ai có căn nhà Trần thì không Trình đồng Tứ phủ (những ai
vừa có căn Tứ phủ vừa có căn Nhà Trần thì có khả năng trình đồng Tứ
phủ) mà chỉ cần Đội lệnh Nhà Trần thì có thể ra hầu và phụng sự Nhà
Trần cứu dân độ thế được.
Lễ vật trong nghi lễ Đội lệnh nhà Trần gồm những lễ
vật oản phẩm thông thường có khả năng dâng cúng nhà Trần nón hài
hia áo … một vật phẩm khá quan trọng là Hòm sắc, người đội lệnh nhà
Trần cần chuẩn bị kĩ, sơn son thiếp vàng, giữ gìn thật cẩn thận.
Nhìn chung lễ vật dâng cúng nhà Trần khá đơn giản.
Trước khi làm lễ phải thỉnh tới Quan thầy Trần Triều
(là Quan thầy có căn thông hiểu Trần Triều) đứng ra chủ trì lễ này
cho Đệ tử (Quan thầy Tứ phủ không làm được). Quan Thầy sẽ thảo ra
sắc Trần Triều cho Đệ tử, xin Đức Thánh Trần đặt tên Thánh hiệu nhà
Trần.
Khoa nghi có thể cúng Phát tấu, Tam phủ nhưng nhất
quyết phải cúng thỉnh Trần triều.
Sau phần cúng thỉnh là tới phần Hầu Thánh Trần, nếu
hầu Thánh trần chuyên biệt thì phải hát thỉnh Tam phủ Công đồng
trước, sau đó thỉnh đức Thánh Trần luôn và không có thỉnh Mẫu, Quan
Thầy hầu giá đức Thánh Trần, mở sắc ra phê chữ “Chuẩn nạp” và gói
ghém kĩ càng cho vào hộp sắc, truyền trao cho Đệ tử mới. Quan thầy
có khả năng hầu thêm các giá Trần triều nhưng không hầu giá nào của
Tứ phủ, cũng không hát thỉnh.
Sau nghi thức cấp sắc thì Đệ tử có khả năng hầu tất
cả các giá nhà Trần được gồm Đức Đại vương, gia thân và tôi tớ
tướng tá của Ngài. Các giá nhà Trần đều ngự áo màu đỏ, trừ Vương cô
Nhất màu vàng, Vương cô Nhị màu xanh. Đức Đại vương không lên Đai
thượng, còn các Đức ông khác thì có.
Các giá nhà Trần thường đi cờ kiếm, riêng Đức Đại
vương có khả năng đi cờ bằng khăn tấu, Vương cô Đệ nhất đi cờ đại
không đi kiếm và Điện Súy Đức ông thì đi Long đao. Phải lưu ý, Cô
Bé Cửa Suốt và Cậu Bé Cửa Suốt là tùy tòng của Đệ Tam Đức Ông, cách
gọi Cô cậu này không giống với cách gọi Cô Cậu trong Tứ phủ, mà đây
là cách gọi trong Gia đình.
Người Đội lệnh Trần triều phải hằng tháng sóc vọng
khâm trực cửa Đức Đại vương và nơi Đội lệnh, nếu có điều kiện thì
lập tĩnh thờ Đức Đại vương ở nhà, nếu lập tĩnh thờ ở nhà thì trong
lúc Quan thầy hầu Đức Đại vương Ngài phê sắc ban cho tên Tĩnh hay
Điện thờ Tại gia.
Người Đội lệnh Trần triều phải giữ gìn Hòm sắc cẩn
trọng, nó là thứ tôn quý mà Nhà Trần ban cho, khi chết mà phải mang
theo bên mình.
Người Đội lệnh Trần triều phải học hỏi Quan thầy các
phương pháp cứu dân độ thế, nghiêm cứu chiêm nghiệm Thánh đạo, nếu
được Thánh đức ban ân phải cùng gánh vác công việc độ thế với Giáo
hội và Quan thầy.
Với người vừa có căn Tứ phủ vừa có căn Trần triều
thì có khả năng đội lệnh Trần triều và trình đồng Tứ phủ cùng
lúc.
Bộ đồ thờ men rạn đắp
nổi
Mở phủ Tam Tòa Chúa
bói:
Với những người có căn mệnh tiên tri, bói toán thì
họ cần phải mở Phủ bói để các vị Chúa bói gia ân bảo hộ cho khả
năng được sáng tỏ để có khả năng giúp người. Có người mở Phủ bói để
cho mình được tự tin vào phán đoán của bản thân trong công việc
hoặc cuộc sống.
Người có nguyện vọng muốn mở Tam Tòa Chúa Bói phải
cung thỉnh Quan Thầy chứng giám và hướng dẫn, người muốn mở Phủ bói
khó khăn đã là Thanh đồng tức đã lễ Trình đồng rồi hoặc có khả năng
kết hợp với Trình đồng khai phủ với mở phủ Tam Tòa Chúa Bói trong
lễ mở phủ, nhưng thông thường làm riêng.
Mở phủ Tam tòa Chúa Bói là một việc làm cúng trình
lên các Tiên Chúa có khả năng Tiên tri trong hệ thống Tứ phủ, tuy
gọi là Tam tòa nhưng sự thực thì có rất nhiều chúa Bói phải kể đến
là Chúa Tây Thiên, Chúa Nguyệt Hồ, Chúa Cao Mại, Chúa Cà Phê, Chúa
Mọi Tộc, Chúa Ba Nàng, Chúa Năm phương, nhưng đứng đầu là ba vị
Chúa đệ nhất Tây Thiên, Chúa đệ nhị Nguyệt Hồ và Chúa đệ tam Cao
Mại, nên người ta gọi là Tam tòa Chúa Bói.
Lễ vật dâng cúng Tam tòa Chúa bói khá cầu kì với
những màu sắc đẹp mắt:
Ba bộ nón hài quạt của Chúa.
Một chĩnh nước có nắp màu xanh.
Ba đĩa bánh với mỗi đĩa gồm: bánh trưng, bánh dầy,
bánh gai, bánh cốm, bánh phu thê.
Ba Quạt, 3 khăn, 3 gương, 3 lược, 3 thoi chỉ, 3 kim
khâu, 3 con dao, 3 cái kéo, 3 miếng trầu, 3 hũ ngũ cốc, 3 quả trứng
chín, 3 quả trứng sống, 3 đồng tiền dương. (nếu có khó khăn thì 12,
hoặc 36).
Nếu mở Tam Tòa Chúa Bói cùng Mở phủ trình đồng thì
sẽ cúng các khoa Tứ phủ Trình đồng, Khoa Tam tòa Chúa Bói nếu mở
phủ bói riêng thì có thể cúng khoa Thánh Mẫu và Tam Tòa Chúa Bói,
ngoài ra có thể cúng thêm Trần triều, Sơn Trang, Ngũ Hổ, tùy khoa
nghi.
Trong vấn hầu đồng mở Phủ Bói, ba giá chúa sẽ về
chứng nón hài và chỉ chúa Nguyệt Hồ mới mở khai chĩnh cho Thanh
đồng.
Thông thường đàn mở phủ Bói có 3 giá Chúa ngự về, có
khi thường xuyên hơn, Giá chúa sẽ chứng mâm nón hài tương ứng với
màu áo của mình, sau đó dải cầu từ trên ban có để Tam tòa Chúa Bói
tới đầu của Thanh đồng, sau đó cấp thực ban ngân cho Thanh đồng
giống như khi mở phủ trình đồng, nếu là chúa Nguyệt Hồ thì khai
chĩnh và ban nước cho Đồng, lấy một chút nước tưới tẩm lên đầu cho
Đồng và cây phủ Bói. Sau khi an tọa, Pháp sự tấu đối, Chúa phê vào
sổ chữ “Chuẩn thuận” và đóng triện vào.
Người mở phủ Bói là người đã trực tiếp hiệp thông
với Tam Tòa Chúa Bói và các vị Chúa Bói khác, nên họ có khả năng
nguyện cầu, và nhờ uy lực của các Chúa gia ân bảo hộ, khai quang
trí tuệ mình, cho mình được hoàn thành tốt bản nguyện thông tri âm
dương, chăm chỉ học hành chuyển hóa để có khả năng soi đâu sáng
đấy, thông suốt nhiều sự của thiên hạ, để có thể nhắn nhủ, khuyên
dưỡng trần gian, chăm tu tích công đức, chuyển hóa điều ác làm việc
lành.
Người làm lễ Tam tòa Chúa bói cũng để tạ ơn Tiên
chúa đã linh tính mách bảo Thanh đồng trong đời sống tương đương
trong công việc, giúp Thanh đồng thoát ách khỏi nàn, hưởng nhiêu sự
lợi ích.
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê cách viết cốt tôn nhang hãy
cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp
mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết cách viết
cốt tôn nhang ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ
nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết cách viết cốt tôn nhang Cực hay !
Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết cách
viết cốt tôn nhang rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý
giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về cách viết cốt tôn nhang
Các hình ảnh về cách viết cốt tôn nhang đang được chúng mình Cập
nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư
[email protected] Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail
ngay cho tụi mình nhé
Tìm thêm kiến thức về cách viết cốt tôn nhang tại
WikiPedia